Vịt cỏ (hay còn gọi là vịt Tàu, vịt đàn, vịt đồng, vịt chạy đồng) là giống vịt nhà có nguồn gốc ở Việt Nam, đây là một trong những giống vịt được nuôi phổ biến rộng rãi ở vùng nông thôn Việt Nam. Chúng có nguồn gốc từ vịt trời, qua quá trình thuần hóa tự nhiên tạo thành giống vịt cỏ thích nghi với đời sống chăn thả. Do không có tác động chọn lọc, nên giống vịt này đang bị pha tạp nhiều. Vịt cỏ có tập tính theo đàn, di chuyển khá nhanh, tìm kiếm mồi giỏi, chịu đựng kham khổ, chống đỡ bệnh tật tốt, thuận lợi cho việc chăn thả trên đồng bãi. Chúng cũng là một trong những biểu tượng của làng quê Việt, nhất là một loài vật quen thuộc ở những vùng sông nước.
Nhằm bảo tồn và phát triển vịt cỏ; Tôn vinh người nuôi vịt cỏ và chế biến vịt cỏ; Quảng bá sản phẩm đặc sản vịt cỏ là trách nhiệm của những người làm nhiệm vụ nông nghiệp hữu cơ. Ở nước ta, trước đây ở các vùng miền đều nuôi vịt cỏ nhiều nhưng nổi tiếng nhất phải nói đến vịt cỏ Vân Đình (huyện Ứng Hòa, TP. Hà Nội). Tuy nhiên hiện nay, gần như 99% vịt chế biến dưới cái tên vịt cỏ trên mọi miền tổ quốc đều không phải là vịt cỏ mà là giống vịt lai, vịt siêu, không còn nuôi thả đồng mà bằng cám công nghiệp.
Vịt cỏ đi xuống bởi người chăn nuôi đang chạy theo đầu cân, giờ chúng ta muốn phục hồi, phát triển vịt cỏ thì phải bán theo đầu con. Trước tiên phải tổ chức lại khâu sản xuất giống nhằm bảo tồn rồi phát triển vịt cỏ. Sau đó mời doanh nghiệp vào để quảng bá, tiêu thụ và đặt hàng thì người chăn nuôi có thể yên tâm để sản xuất quanh năm.
Đặc điểm
Cổ dài, mình thon nhỏ, ngực lép. Chân hơi dài so với thân, chân thường màu vàng, có con màu nâu, một số con màu đen (những con này toàn thân có màu da xám). Vịt có lông màu vàng, có con màu xanh, màu cà cuống có chấm đen, có con đen nhạt. Vì bị pha tạp nhiều nên có nhiều màu lông khác nhau. Vịt có đầu thanh, mắt sáng, lanh lợi, mỏ dẹt, khỏe và dài, mỏ thường có màu vàng, có con mỏ màu xanh cà cuống lấm chấm đen, có con màu tro. Những con màu lông khác thì có da trắng hơi vàng. Dáng đi nhanh nhẹn, kiếm mồi giỏi, tỷ lệ nuôi sống cao.
Vịt cỏ có khối lượng mới nở 42 g/con, lúc trưởng thành con đực nặng 1,6 kg, con mái nặng 1,5 kg/con. Vịt Cỏ có khối lượng thấp, tỉ lệ thân thịt khoảng 50%, tỉ lệ xương 15-16% ở vịt đã chéo cánh. Trọng lượng giết thịt lúc 75 ngày tuổi chỉ đạt 950 - 1.100 gr/con. Trọng lượng vịt bỏ nội tạng đầu, chân chiếm 70% so với trọng lượng sống, trọng lượng thịt đùi là 15,2% và trọng lượng thịt ức là 8,8%. Con vịt cỏ nặng chỉ chừng 1,2 - 1,4 kg, chất lượng thịt có thơm ngon.
Thịt vịt cỏ, thịt ít mỡ, khi chín thịt có màu hồng nhạt, thịt thơm và béo ăn với nước mắm gừng chua chua ngọt ngọt mang lại cảm giác ngon miệng, kích thích vị giác và ngon miệng. Vịt cỏ là món đặc sản, nhất là vịt cỏ Vân Đình, hiện nay dòng vịt Vân Đình đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Vịt Cỏ không có khả năng tích luỹ mỡ nhiều, khó béo nên Người ta không vỗ béo, ngoài ra, do vịt nhút nhát, hiếu động, thực quản mỏng khi nhồi béo dễ vỡ, vì thế không nhồi béo và vỗ béo vịt cỏ.
Màu lông
Vịt Cỏ có lông không thuần nhất, Một số lớn vịt có màu nâu xen lẫn màu nhạt gọi vịt "cà cuống". Một số lông màu trắng đục hoặc trắng pha đen, xám. Do màu lông không thuần nhất nên ở miền nam vịt Cỏ được người nuôi chia làm nhiều loại khác nhau:
Loại có màu lông trắng tuyền được gọi là vịt Tầu Cò (Cỏ - miền Nam)
Lông trắng pha màu đen hay xám gọi là vịt Tầu Nổ (hay vịt Huế)
Vịt có lông xám có vằn như cà cuống gọi là vịt Tầu Rằn
Lông xám có khoang trắng gọi là vịt Tầu (tàu) Phèn, màu đen (tàu ô), có loại màu lông đen khoang cổ trắng, ngực trắng (vịt tàu khoang)...
Sinh sản
Mỗi năm có thể đẻ từ 150 - 250 quả, tuỳ theo điều kiện nuôi dưỡng. Khối lượng trứng 65 g/quả, 70 - 80 ngày tuổi có thể giết thịt. Vịt có tốc độ mọc lông nhanh, nuôi theo phương thức chăn thả thì 65 - 75 ngày tuổi đã mọc đủ lông. Trứng vịt Cỏ tương đối tốt, khối lượng trung bình 61,7 gram, có vỏ màu trắng đục, đôi khi có màu xanh nhạt gọi là trứng "cà cuống"; vịt Cỏ đẻ từ 130 - 160 trứng, ở những vùng có điều kiện đồng bãi tốt, vịt đẻ tới 170 - 190 quả/năm (8 - 12 kg trứng/năm). Vịt cỏ bắt đầu rớt hột lúc 135 - 140 ngày tuổi, thể trọng lúc bắt đầu để là 1,2 - 1,4 kg/con; Tuổi bắt đầu giao phối của vịt đực 125 - 130 ngày và thể trọng là 1,3 - 1,5 kg/con. Tỷ lệ trứng có phôi đạt 94,3%, tỷ lệ trứng nở/phôi đạt 81,2%.
Phân bố
Vịt cỏ thích nghi với đời sống chăn thả, do không có tác động chọn lọc, nên giống vịt này đang bị pha tạp nhiều. Vịt cỏ phân bố phổ biến khắp mọi miền đất nước, chiếm 85% trong tổng đàn, tập trung nhiều ở các vùng lúa nước. Ở vùng sông nước miền Tây, người ta hay ấn tượng về các món ăn được chế biến từ con vịt thả đồng. Trong các món thì có hương thơm ngạt ngào của món vịt nấu chao. Người dân thường thả lang đàn vịt chạy khắp đồng, con nào con nấy say mồi mập ú. Gần như mọi nhà đều có nuôi đàn vịt, nhiều thì để bán trứng, bán thịt; ít thì để dùng trong các bữa tiệc, liên hoan.
Giống lai
Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên đã cho ra vịt TC. Đây là con lai giữa vịt cỏ và vịt Triết Giang. Chúng có màu lông đồng nhất, màu cánh sẻ nhạt hơn vịt cỏ nhưng đậm hơn vịt Triết Giang. Tỷ lệ nuôi sống ở vịt TC cao. Tới 17 - 18 tuần nuôi thì chúng bắt đầu đẻ. Chúng là giống đẻ tốt: 280-290 quả/mái/năm. Năng suất khoảng 250 quả trứng/con/năm. Tỷ lệ trứng đủ tiêu chuẩn giống trên 95%. Tỷ lệ ấp nở từ 85-90%. Tỷ lệ vịt bố mẹ chết/loại thải/tháng khoảng 1-1.5%. Tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng từ 1.5-1.7 kg. Trọng lượng vịt mẹ khi đẻ bói khoảng 1.7 kg, khi đẻ rộ khoảng 1.3-1.4 kg. Trọng lượng trứng: 70-75gr.
Người ta có thể nuôi vịt TC theo các phương thức chăn nuôi vị - ngan an toàn sinh học như: Nuôi nhốt hoàn toàn trong chuồng; nuôi nhốt trong chuồng nhưng có sân chơi hoặc nuôi nhốt trong chuồng nhưng có vườn cây hoặc có ao cá kề bên. Cũng có thể tiến hành nuôi chúng kết hợp với trồng lúa hoặc nuôi chạy đồng. Nuôi ở nhiều quy mô. nếu nuôi 1000 vịt siêu (hoặc TC) đến lúc đẻ bói sẽ tiêu tốn mất khoảng 160 triệu đồng tiền giống, thức ăn, thuốc thú y và tiếp theo để sản xuất ra 01 quả trứng mất khoảng 1.800-2.000đ/quả.
Xem video về vịt cỏ ở đây:
Chúng tôi trên mạng xã hội